Khi bắt đầu cuộc hành quân về miền Tây thì đoàn đã gặp “sự
cố”. Đoàn vừa đến chân núi Bà Đen bỗng thấy đoàn đi ngược lại dạt vào rừng. Tổ
trinh sát của đoàn trên vượt lên kêu tôi đến gặp đồng chí Trần Văn Trà. Được
gặp mặt một con người “bạch diện thư sinh” lại là Phó tư lệnh Nam Bộ, Tư lệnh
Phân liên khu miền Đông, vị chỉ huy một chiến trường rộng lớn nên tôi vừa kính
phục vừa lo. Tôi còn thấy một chị đang nhai trầu bỏm bẻm, sau mới biết chị là
Hồ Thị Bi được mệnh danh “Nữ kiệt miền Đông”. Tư lệnh Trần Văn Trà chỉ nhắc nhở
đoàn chúng tôi mặc quần áo màu vàng giống màu quần áo kaki của bọn Commandos
(biệt kích), phải cử tổ đi trước báo cho các đoàn đi ngược lại, tránh bắn nhầm
nhau.
Vừa xuống đến Đồng Tháp Mười, một con trâu mộng xông tới húc
vào Tuấn, rất may ba lô của Tuấn đầy quần áo, lại thêm cái nồi nấu cơm cột bên
ngoài nên chỉ thủng nồi và ba lô, Tuấn không hề hấn gì. Một ông già Nam Bộ cho
biết, trâu ở đây rất ghét bọn Tây đi càn hay bắn chết đồng bào nên thấy màu
vàng là nó húc. Bị luôn hai cú, vừa đến nơi đóng quân, không chờ lệnh, tất cả
đều nhúng những bộ quần áo vải xi-ta màu vàng (do Liên khu 5 cấp) xuống dưới
bùn thành màu tro. Đóng quân ở gò Xa Rày thuộc tỉnh Long Châu Sa (một phần đất
của 3 tỉnh Long Xuyên, Châu Đốc và Sa Đéc), chuẩn bị vượt sông Tiền qua miền
Tây Nam Bộ. Gặp mùa nước nổi, sông Tiền rất rộng, hai bờ nước cũng ngập sâu, đi
lại chỉ bằng xuồng ghe. Địch dùng tàu chiến kiểm soát con sông rất chặt. Cán bộ
và nhân dân mỗi lần qua rất nguy hiểm nên gọi là “sông bạc đầu” (qua được sông
là đầu sẽ bạc). Đoàn phải nằm lại chờ thời cơ.
Địch càn vào gò, đoàn di chuyển sang một nơi khác. Giặc Pháp
bắn một loạt vào đám lục bình lớn chủ nhà và đồng bào đang “chém vè” tránh
địch, chủ nhà bị trúng đạn. Sau cuộc càn anh em rất thương tiếc chủ nhà bị giặc
giết hại, cùng gia đình lo chôn cất chu đáo. Thạc bị lạc đoàn, không biết bơi,
lội ra được một quãng nước sâu phải lấy cái mũ bằng tre đặt dưới chân, nấp
trong một đám lục bình nhỏ, mặt phải ngửa lên trời chịu nắng nhưng lại được an
toàn.
Trong lúc toàn đoàn đi vắng, ở nhà Hiệu lấy xuồng, chưa quen
chống sào, ra được một đoạn lăn tòm xuống nước, Hiệu cũng không biết bơi đang
chới với, Thạc còn ở nhà nhưng cũng không biết bơi, vớ được cây sào chìa
ra cho Hiệu ôm kéo vào bờ, thoát chết.
Tình hình bớt căng, đoàn chia làm hai, tôi phụ trách nửa
đoàn vượt sông về Phân Liên khu miền Tây, Hiệu đưa nửa đoàn qua chiến trường
Campuchia.
Đoàn tôi về miền Tây được cấp chiếc ghe lớn nhưng không ai
biết chèo, tôi cũng chỉ chèo được xuồng nhỏ. May có hàng binh đi nhờ rất thạo
sông nước đảm nhận chèo lái, còn mọi người cầm một cái dằm giống như ghe đua.
Trạm trưởng liên lạc dẫn nhiều đoàn cùng đi một chuyến. Ra gần đến bờ sông
Tiền, thấy trước mũi một chiếc xuồng 4 chèo (chở cán bộ cao cấp) để một ruột xe
hơi bơm căng yêu cầu cho xì hơi để giữ bí mật. Trong xuồng có tiếng nói vọng ra
“Bí mật là bật mí hả? Không xì gì cả!”. Tôi nghe anh trạm trưởng nói “cho
vượt mấy cái trấp”, tôi cũng chẳng biết “trấp” là cái gì. Vượt sông không khác
một cuộc đua ghe. Gần 20 anh em tay cầm dằm đồng nhịp đẩy chiếc ghe đi băng
băng như ghe máy. Qua đến bờ bên kia cả đoàn nhẹ nhõm vì không gặp tàu tuần
tiễu của địch. Đến một đoạn có đám cỏ và bùn nhão phập phều trên mặt
nước, anh hàng binh la lớn ráng bơi qua trấp, tất cả đều tập trung đẩy mạnh
vượt qua mấy chục mét. Đến địa phận thuộc tỉnh Long Châu Hà (An Giang) trạm
trưởng hỏi đoàn của tôi có đi chung với “ông cao cấp” nữa không. Tôi nói không,
trạm trưởng nói thật tội nghiệp cho các anh cực khổ, thôi cho các anh chiếc ghe
để đi tiếp.
Từ Long Châu Hà về Phân Liên khu miền Tây không còn đi chiếc
ghe lớn mà được cấp xuồng ba lá 3-4 người một chiếc để dễ vác xuồng băng qua lộ
Cái Sắn (từ Cần Thơ về Rạch Giá).
Về đến Bộ Tư lệnh chúng tôi được chiêu đãi một bữa trước khi
đi nhận nhiệm vụ ở các đơn vị và địa phương. Trong buổi liên hoan, một bác nông
dân đứng lên định phát biểu, tôi kéo tay bác với ý định để Tư lệnh phát biểu
trước. Tư lệnh Dương Quốc Chính bảo tôi, tiệc liên hoan là do đồng bào đãi, nên
các đồng chí phải để đồng bào phát biểu trước. Ông còn nhắc
chúng tôi “nhập gia tùy tục”, phải chan hòa với nhân dân và cán bộ, chiến sĩ
địa phương. Trưởng phòng Chính trị Phân liên khu Hoàng Thế Thiện cho biết đã bố
trí tôi về Tiểu đoàn 307, đơn vị chủ lực của Nam Bộ nhưng anh Hai
Khiết ở Long Châu Hà xin tôi về tỉnh thì tôi tính sao. Khi tạm dừng ở
Long Châu Hà qua tiếp xúc tôi rất mến anh Hai, tôi nhận lời về chiến trường
Long Châu Hà, tuy biết trước đây là nơi gian khổ nhất miền Tây Nam Bộ.
Giữa năm 1954, tôi được phân công phụ trách đoàn cán bộ,
chiến sĩ Long Châu Hà xuống dự Đại hội Anh hùng, chiến sĩ thi đua miền Tây Nam
Bộ. Đang tiến hành Đại hội, Trưởng phòng Chính trị Phân Liên khu Hoàng Thế
Thiện báo tin Chính phủ ta với Chính phủ Pháp đã ký kết hiệp định Genève, hết
chiến tranh anh em sẽ được nghỉ ngơi. Đồng chí Ung Văn Khiêm, Ủy viên Thường vụ
Trung ương Cục liền đứng lên giải thích ý nghĩa Hiệp định, kháng chiến
chống Pháp đã chấm dứt nhưng ta còn phải tiếp tục đấu tranh, còn nhiều việc
phải làm. Tôi cùng đoàn dự Đại hội tức tốc chèo xuồng từ Bạc Liêu trở về Long
Châu Hà, chuẩn bị tập kết ra miền Bắc.
Nguyễn Viết Tá
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét