Giới thiệu về tôi

Ảnh của tôi
TP.Hồ Chí Minh, Vietnam
Nhà lưu niệm Thiếu tướng Hoàng Thế Thiện (1922-1995) - Quản lý: Ông Hoàng Anh Thi (con trai cố Thiếu tướng Hoàng Thế Thiện) - Địa chỉ: 2/47 Phan Thúc Duyện, P.4, Q.Tân Bình, TP.HCM - Email: nhaluuniem.hoangthethien@gmail.com - Tel: (84-28) 38111467 - Mobile: 0918 636 791 - Website: www.hoangthethien.net

Thứ Năm, 16 tháng 12, 2021

Tỉnh Ninh Thuận đã có tên đường Hoàng Thế Thiện

Ngày 11-12-2021, Hội đồng nhân dân tỉnh Ninh Thuận đã ban hành Nghị quyết số 18/2021/NQ-HĐND về việc Sửa đổi, bổ sung Điều 1 Nghị quyết số 49/2016/NQ-HĐND ngày 23-08-2016 của Hội đồng nhân dân tỉnh Ninh Thuận về đặt, đổi tên đường trên địa bàn thành phố Phan Rang - Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận. Nghị quyết này đã được Hội đồng nhân dân tỉnh Ninh Thuận Khóa XI, Kỳ họp thứ 3 thông qua ngày 08-12-2021 và có hiệu lực từ ngày 20-12-2021. 

Theo Nghị quyết số 18/2021/NQ-HĐND của Hội đồng nhân dân tỉnh Ninh Thuận, thành phố Phan Rang - Tháp Chàm (tỉnh lỵ của tỉnh Ninh Thuận) có 94 tuyến đường mới xây dựng, phát triển theo quy hoạch trên địa bàn thành phố được đặt tên mới trong năm 2021, trong đó có tuyến đường mang tên Thiếu tướng Hoàng Thế Thiện. 

Tuyến đường Hoàng Thế Thiện (tên cũ là đường N5) có chiều dài 99,9m, chiều rộng 8m, có điểm đầu giao với đường D1 (được đặt tên mới đợt này là đường Hoàng Minh Giám), điểm cuối giao với đường D2 (được đặt tên mới đợt này là đường Hoàng Dư Khương), thuộc địa bàn Khu đô thị mới Đông Bắc (Khu K1), phường Thanh Sơn, thành phố Phan Rang - Tháp Chàm. 

Việc đặt tên đường mang tên Thiếu tướng Hoàng Thế Thiện tại thành phố Phan Rang - Tháp Chàm (tỉnh lỵ của tỉnh Ninh Thuận) thể hiện sự trân trọng của chính quyền và nhân dân tỉnh Ninh Thuận đối với những cống hiến của ông đối với Tổ quốc Việt Nam. 

Gia đình - Nhà lưu niệm Thiếu tướng Hoàng Thế Thiện xin trân trọng cảm ơn chính quyền và nhân dân tỉnh Ninh Thuận.








 

Thứ Năm, 19 tháng 8, 2021

Tỉnh Bạc Liêu đã có tên đường Hoàng Thế Thiện

Tin vui nhân dịp Kỷ niệm 76 năm Cách mạng Tháng Tám (19-08-1945 – 19-08-2021) 

Ngày 13-08-2021, Hội đồng nhân dân tỉnh Bạc Liêu đã ban hành Nghị quyết số 10/2021/NQ-HĐND về việc đặt tên 67 tuyến đường trên địa bàn thành phố Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu. Nghị quyết này đã được Hội đồng nhân dân tỉnh Bạc Liêu Khóa X, Kỳ họp thứ 2 thông qua ngày 13-08-2021 và có hiệu lực từ ngày 23-08-2021. 

Theo Nghị quyết số 10/2021/NQ-HĐND của Hội đồng nhân dân tỉnh Bạc Liêu, thành phố Bạc Liêu (tỉnh lỵ của tỉnh Bạc Liêu) có 67 tuyến đường được đặt tên mới trong năm 2021, trong đó có tuyến đường mang tên Thiếu tướng Hoàng Thế Thiện. 

Tuyến đường Hoàng Thế Thiện có chiều dài 756,25m, chiều rộng 9m, lộ giới 13m, có điểm đầu gần vòng xoay ngã năm, điểm cuối đến ranh dự án, thuộc địa bàn Khu dân cư Tràng An, phường 7, thành phố Bạc Liêu.

Việc đặt tên đường mang tên Thiếu tướng Hoàng Thế Thiện tại thành phố Bạc Liêu (tỉnh lỵ của tỉnh Bạc Liêu) thể hiện sự trân trọng của chính quyền và nhân dân tỉnh Bạc Liêu đối với những cống hiến của ông đối với miền Tây Nam Bộ nói riêng và với Tổ quốc Việt Nam nói chung. 

Gia đình - Nhà lưu niệm Thiếu tướng Hoàng Thế Thiện xin trân trọng cảm ơn chính quyền và nhân dân tỉnh Bạc Liêu.

Thứ Hai, 4 tháng 1, 2021

Người Cha nhân từ, người Thầy mẫu mực

Cho tới mùa xuân năm 1996 tôi đã sang tuổi 63 tức là đã gần với tuổi Cha tôi lúc Người vĩnh viễn ra đi (67 tuổi). Mấy năm này tôi mới có thời gian suy ngẫm, ôn lại lịch sử đời mình mà trong đó có đến nửa thời gian là gắn bó với gia đình. Càng ngẫm nghĩ càng thấy thêm yêu mến, tự hào về gia đình, dòng họ nhà ta, càng thấy trách nhiệm mình trong việc giáo dục con cháu, mong muốn phát huy truyền thống tốt đẹp của gia đình mà các cụ đã xây dựng.

Hình ảnh Cha khi tôi còn thơ ấu

Tôi nhớ lại vào khoảng 1939-1940, gia đình lúc đó đã có tới 8 anh chị em: 6 trai, 2 gái (sau đó ngày 6.01.1946 mẹ sinh em Đại Đồng, và tới cuối tháng 10.1949 sinh em Chí Công, gia đình có 10 anh chị em). Khi đó tôi 6-7 tuổi, gia đình đang ở Hải Phòng. Là con gái nên thời ấy hai chị em tôi không được đến trường học. Cha tôi đón thầy giáo về nhà dạy cho mấy chị em: Chị Hiến Chi, Quốc Ân, Hải Đạm, Hải Khoát và Dương Danh Dy (con cô Tư Hàm). Thầy dạy lâu hơn cả là thầy Lưu Văn Thi. Thầy là học sinh trường Bonnal, là hướng đạo sinh và sau này tôi biết thầy là Việt Minh. Sau cách mạng, thầy tham gia quân đội lấy tên là Hoàng Thế Thiện, năm 1958 là chỉ huy trưởng sân bay Gia Lâm. Năm 1974 là Thiếu tướng, Chính ủy Quân đoàn 4, rồi Thứ trưởng Bộ Quốc phòng kiêm Tổng cục trưởng Tổng cục Xây dựng Kinh tế của Bộ. Mấy năm sau thầy làm Thứ trưởng bộ Lao động - Thương binh và Xã hội. Thầy mất năm 1995 tại thành phố Hồ Chí Minh. Năm 1971, thầy có đến Thanh Xuân thăm tôi và sau đó về quê Đông Tác, Trung Tự thăm mẹ tôi. Thầy là người đã sớm truyền thụ lòng yêu nước, chí căm thù thực dân Pháp cho chị em chúng tôi. Năm 1940, khi Pháp đầu hàng phát xít Đức, chính quyền thành phố Hải Phòng phát không ảnh thống chế Pétain cho mọi người, thầy bảo chúng tôi: Pétain là kẻ bán rẻ nước Pháp, các em nên xé ảnh đi. Nhà thầy rất nghèo. Chúng tôi có đến chơi nhà thầy ở đường Lạch Tray mấy lần.

Sau thầy Lưu Văn Thi, Cha nhờ một cô giáo (tôi quên mất tên cô) dạy ít lâu thì đến ngày tiền khởi nghĩa, rồi Cách mạng tháng Tám năm 1945, chúng tôi bỏ học. Sau cách mạng, gia đình dọn lên Hà Nội, chúng tôi mới được cắp sách đến trường. Chị Hiến Chi và tôi học ở trường Trưng Vương, do bà Thục Viên làm hiệu trưởng.

Tính Cha rất hiền, Người không hề đánh các con một lần nào dù là tát, bợp tai. Khi bực lắm cũng chỉ nghiêm nét mặt, đằng hắng giọng. Khi các con 18 tuổi, Cha chuyển sang gọi là anh, chị. Đối với mẹ tôi cũng vậy, không bao giờ thấy hai thân to tiếng, nặng lời với nhau. Khi có trách nặng, Cha chỉ nói một câu: “Mợ mày không bằng bà nội, bà nội lại không bằng cụ” (ngày xưa cướp đến nhà, cụ bà bình tĩnh ngồi trong nhà bắn nỏ ra đuổi cướp).

Ngày ngày Cha đến trường trung học Bonnal (nay là trường THPT Ngô Quyền) dạy học. Cha đi làm bằng chiếc xe đạp màu đen, về nhà lại đặt xe lên chiếc giá bằng gỗ để dễ lau chùi.

Nhà ăn cơm ngày hai bữa: bữa sáng từ 8-9 giờ, bữa chiều 16-17 giờ. Không ăn lót dạ sáng sớm. Hằng ngày, 4 giờ sáng Cha đã dậy chong đèn đọc sách, sau đó tập thể dục, tắm nước lã dù là mùa đông (nhà tắm có vòi hoa sen, Cha người béo đứng tắm dưới vòi nước không sợ lạnh).

Bữa cơm gia đình rất giản dị, không cao lương mỹ vị như một số gia đình bậc trung hồi đó. Thường là rau muống luộc, thịt kho tàu, muối vừng hoặc canh riêu cá, giá xào, cá kho v.v... Hôm nào hào hứng Cha mới bảo người nhà mang liễn ra hiệu Hiệp Lợi ngoài phố Cát Dài mua phở về cả nhà cùng ăn. Đến tháng lương thứ 13 (thường vào ngày quốc khánh Pháp 14 tháng 7 hàng năm) Cha mua một chai xi rô cam khao cả nhà. Đàn con thích lắm. Tối tối khi rỗi việc Cha gọi các con lại đọc sách, kể chuyện, đánh đàn Băng giô cho nghe.

Từ bé tôi đã có nhận xét: Giữa Cha và các con không có sự ngăn cách quá mức như các cụ nhà Nho mà thực sự là bình đẳng, Cha coi các con như bạn của mình. Có lẽ nhờ vậy mà không khí trong gia đình luôn luôn vui vẻ, nhộn nhịp, dân chủ. Trong nhà không bao giờ thấy có chuyện bàn bạc tính toán tiền nong vụ lợi, nói xấu người này, bình phẩm người khác. Quanh mâm cơm chỉ nói chuyện gia đình vui vẻ. Anh cả (Hải Trừng) khi tranh luận thời sự quốc tế với Cha cũng có lúc gân cổ lên lý sự, nhưng Cha không hề cắt ngang hay lên tiếng phê phán.

Mỗi năm vào dịp nghỉ hè, Cha đi chấm thi một lần. Người chuẩn bị rất chu đáo: là quần áo, mang đủ giầy dép. Màu giầy tương ứng với quần áo, cravát màu đứng đắn, mũ phớt màu nâu và xám. Người thường mặc bộ complê màu nâu, mùa hè màu trắng, tóc húi cua, không để râu.

Mùa hè, lúc đi sinh hoạt Hướng đạo sinh, Cha thường mặc quần soóc, áo sơ mi cộc tay đều màu trắng, giầy thể thao, mũ cũng màu trắng (hồi đó người ta đánh mũ và giầy vải bằng thứ phấn trắng nước).

Cha lúc nào cũng khoẻ mạnh, không mấy khi đau yếu vặt. Những ngày nghỉ hằng năm Cha thường về quê (Trung Tự, Hà Nội) thăm ông bà. Có năm Người đi cắm trại tận Yên Tử, Bạch Mã cùng anh em Hướng đạo sinh. Cũng có năm Người tổ chức cho vợ con đi cắm trại bên Kiến An (núi Phủ Liễn) với các học sinh của mình.

Người mới 40 tuổi mà đã đạo mạo. Tôi nghe người ta thường gọi là “cụ giáo”, “cụ Đốc”. Các anh chị học sinh trường Bonnal rất quí Cha, họ thường đến nhà thăm thầy, có khi lại đàn hát tại nhà thầy. Anh Nguyễn Đình Thi, chị Hoàng Hải (em anh Hoàng Quý) hát rất hay.

Sau này có học sinh tuổi đã cao khi qua nhà tôi ở Trung Tự, Hà Nội vẫn ghé vào thắp hương cho thầy.

Người rất uyên thâm chữ Hán, đọc được cả cổ văn như Tứ thư, Ngũ kinh, Đường thi, các tác phẩm của Thi Nại Am, Tào Tuyết Cần... Cha bảo tôi: “Phải đọc nguyên bản mới thấy hết tính bác học của văn chương Tào Tuyết Cần, tính uyển chuyển quý phái của ngôn ngữ tác phẩm Hồng Lâu Mộng”.

Cha cũng tinh thông tiếng Pháp. Tủ sách của Người có các sách văn học cổ điển Pháp, văn học Thế kỷ Ánh sáng châu Âu. Người tiếp thu tư tưởng tự do, bình đẳng, bác ái của văn hoá phương Tây cộng với cái sâu sắc, tinh tế của triết học Lão Tử, Khổng Tử ở phương Đông. Trong nhà có treo một bức tranh Khổng Phu Tử ở phòng khách.

Trong một cuộc gặp gỡ thầy trò Khu Học xá trung ương khoá 1953 –1956, thầy Đinh Gia Khánh có nói với tôi: “Cụ Tảo giỏi cả Đông Tây kim cổ” (Giáo sư, Nhà giáo nhân dân Đinh Gia Khánh là thầy dạy văn học lớp 3A Xã hội chúng tôi ở Khu Học xá trung ương, Nam Ninh, Quảng Tây, Trung Quốc).

Nhưng Cha chỉ giỏi chữ Hán mà không nói được tiếng phổ thông Trung Quốc. Khi làm việc với các chuyên gia Trung Quốc, Người thường dùng “bút đàm”. Có lần tôi thấy Cha và ông khách bút đàm đến hơn 1 giờ đồng hồ, hai bên hỉ hả vui lắm.

Năm 1951, khi là Tổng Thư ký Ban Tu thư Trung ương, Cha có dịch cho Bộ Giáo dục một cuốn sách Địa lý từ chữ Hán. Dịch mất hàng năm trời nhưng sách không được in chỉ vì các danh từ phiên âm kiểu Hán Nôm làm người đọc rất khó tiếp thu, ví dụ: Stalin là Tư Đại Lâm, Italia là Ý Đại Lợi v.v... Thế là bỏ phí một năm trời lao động vất vả.

Cha rất yêu thiên nhiên. Trong sân nhà lúc nào cũng có dàn hoa thiên lý, cây khế, cây nhãn, cây hoàng lan. Khi có điều kiện, Người đưa vợ con ra tắm ở Đồ Sơn hoặc sang núi Phủ Liễn, Kiến An cắm trại. Chúng tôi còn bé mà đã phải dạy sớm, đi bộ ra cầu Niệm rồi đi tiếp xe tay sang Kiến An cắm trại tới chiều tối mới về. Sang Phủ Liễn tôi được thấy rừng thông, được hái sim ăn, được bắt châu chấu voi, hát hò với các anh hướng đạo sinh rất vui. Bọn trẻ chúng tôi còn tham gia chơi trò đánh moóc-xơ với các anh chị nữa.

Chúng tôi thường đi cắm trại ở chùa Hàng Kênh, chùa Dư Hàng, núi Cột Cờ, núi Voi, núi Vọ, v.v... Trưa nắng, cả đoàn người nghỉ dưới gốc cây thông, ăn cơm nắm với muối vừng, tôm rim, uống nước đun sôi để nguội do mẹ chuẩn bị. Thật là giản dị và vui vẻ.

Tôi nhớ có một lần nhóm bắt được một con châu chấu voi màu xanh, một con màu nâu. Cha chỉ vào tảng đá nâu, giảng giải: hai con châu chấu này có màu sắc giống màu lá cây và màu tảng đá để dễ lẩn trốn kẻ rình bắt, Đacuyn (Darwin) gọi là quy luật Vạn vật tương ứng. Sau này khi đọc tiểu sử bà Mari Quiri (Marie Curie) tôi thấy có sự liên hệ giống nhau kỳ lạ giữa lời giải thích của Cha và lời giải thích của ông Pie Quiri (Pierre Curie) về hiện tượng tự nhiên đó với bà Mari Quiri trong tuần trăng mật của ông bà.

Đồ đạc trong nhà tôi đều là những thứ giản dị. Các phòng thoáng, sáng, thường là hai ba phía có cửa sổ. Nhà xây theo kiểu nhà Ánh sáng - kiểu nhà đang được quảng bá thời đó. Các đồ gỗ đánh véc ni không chạm khắc gì. Mỗi cái đều sử dụng tiện lợi, thí dụ: phòng trẻ con có một cái tủ, chúng tôi gọi là tủ gromot. Tủ có 10 ngăn (5x2). Mỗi đứa một ngăn, tự gấp, tự lấy quần áo khi thay. Phòng ăn kê một phản gỗ trắc, cả nhà ăn trên phản đó. Tại nhà ngang có kê bàn ăn cho lũ trẻ dùng. Phòng khách gồm bàn ghế, một bộ xô pha không đệm, một tủ nhỏ đựng chiếc máy hát kiểu thế kỷ XIX, có loa, chạy bằng kim. Cha thích nghe các bài ca trù do các cô đào nổi tiếng hát. Hồi đó tôi không thích. Sau này khi có tuổi, tự nhiên tôi lại rất thích nghe hát dân ca, ca trù, nhất là các bài do nghệ sĩ nhân dân Quách Thị Hồ và nghệ sĩ ưu tú Kim Dung hát. Càng nghe càng thấm thía chất giọng cao sang, sang sảng cũng như nội dung thâm thuý của các bài ca trù đó. Ông nội tôi (cụ Cử Cầu) cũng thích nghe ca trù, thường thì Nội đưa thơ của mình sáng tác cho cô đào hát, mình thì cầm trống điểm nhịp. Nghe hát ca trù đúng là thú vui tao nhã của dân tộc ta. Vào tuổi 70 tôi lại càng thấm thía cái tinh hoa văn hoá dân tộc đó được các thế hệ cha ông giữ gìn yêu quý. Thì ra nó đã ngấm vào máu thịt mình từ thuở ấu thơ và đến nay khi về già nghỉ hưu nghe băng nhạc, đĩa CD, xem băng hình mới bộc lộ được ý thích của mình về thưởng thức văn hoá dân tộc.

Trong phòng khách phải kể đến hai chiếc tủ kính đựng đầy sách của Cha. Sách đều mạ vàng ở gáy, sắp xếp gọn gàng và dễ tìm. Tôi đọc thấy có sách văn học cổ điển châu Âu (Pháp), các tác phẩm triết học, văn học Trung Quốc cổ đại, trung đại, báo Phong Hoá ngày nay của Tự lực văn đoàn, báo Thanh Nghị. Hồi đó tôi đã đọc Lôi Vũ, AQ Chính truyện (do ông Đặng Thai Mai dịch) đăng nhiều kỳ ở báo này.

Tôi rất yêu mến tủ sách và hay lân la đến xem, lau chùi, đọc một số truyện, bài thơ tiếng Việt ở các báo đó mà ngày nay tôi vẫn còn nhớ. Lúc đó tôi đã có ý nghĩ sau này mình cũng sẽ lập một tủ sách gia đình như của cha. Nhưng mơ ước của tôi không thực hiện được vì trong hai cuộc kháng chiến, gia đình tôi phải tản cư và sơ tán, sách bỏ một nơi, chuột mối gặm mất nhiều và bị mất do phải di chuyển chỗ ở.

Theo dòng chảy của thời gian, tôi khôn lớn rồi trưởng thành dần, hình ảnh Cha thân yêu càng ngày càng in đậm trong trí óc, cứ nghĩ đến, nhìn đến ảnh Người trên bàn thờ lại chảy nước mắt, thương nhớ khôn nguôi.

Thưa Cha kính yêu, con đã nên người chính là nhờ công lao nuôi nấng, dạy dỗ của Cha Mẹ và truyền thống giáo dục của đại gia đình ta.

Buổi đầu độc lập

Năm 1945 nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời, Cha được Chính phủ mời về thủ đô làm Tổng Giám đốc Nha Tiểu học vụ toàn quốc. Lúc này tình hình chính trị của đất nước rất khó khăn. Bọn Tàu Tưởng và Việt gian hay gây rối, bắt cóc tống tiền. Cha tôi được Chính phủ bố trí cho ở nhà số 9 phố Lê Thánh Tông, chung một tòa biệt thự hai tầng với ông Phạm Lợi làm Đổng lý Văn phòng Bộ Quốc gia Giáo dục (Bộ trưởng là ông Vũ Đình Hoè). Nhà tôi ở tầng hai. Cha cho hai chị em tôi đi học, thi vào lớp đệ tam trường trung học Trưng Vương. Nhưng chỉ học vài tháng thì nổ ra cuộc Toàn quốc kháng chiến.

Cha theo cơ quan xuống Vân Đình (Ứng Hoà, Hà Đông) rồi lên Việt Bắc. Tôi cùng các em và mẹ theo bà nội, chú thím Ba Nghiêm về quê bà nội ở Đông Phù, Đông Mỹ, Thanh Trì rồi sang Trung Lập, xã Ba Lăng, huyện Thường Tín, nơi có nhà một học trò cũ của ông nội. Khi Pháp đánh xuống phía Nam Hà Nội, cả đại gia đình lại theo chú Hai Kha (Thiều Chửu) ngược sông Đáy lên ở Tùng Thiện, Sơn Tây. Cho tới sau chiến thắng Việt Bắc thu đông năm 1947, Cha đích thân về đón cả nhà lên Thái Nguyên.

Cha tôi mua một căn nhà gỗ ở xã Tân Cương, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên. Lúc này cảnh gia đình đông con tản cư kháng chiến thật là gian khổ, lo không đủ hai bữa ăn. Cha tự hướng dẫn các con trai lên rừng đẵn cây về làm giường kiểu kháng chiến tức là giường có chân là 4-6-8 cọc gỗ có chạc, hai thanh gỗ ngang dài làm vai giường, rồi đặt các thang giường. Giát giường là nứa đập dập đan nong đôi hoặc nong đơn. Mấy cha con tự làm lấy bếp, chuồng gà. Bọn con gái vào rừng kiếm củi, hái rau tàu bay, rau má. Sau này 4,5 mẹ con chúng tôi đi hái chè thuê cho các chủ đồi chè. Đồi chè càng rậm cỏ tranh thì giá công càng cao, hình như 3 kg chè búp được 1 kg gạo hẩm. Mấy mẹ con ngày kiếm đủ gạo ăn. Mấy em trai đặt bẫy chim cuốc, đánh cá dưới suối. Cha đi công tác xa cả tháng mới về một lần. Những ngày ở nhà Cha lao động chân tay suốt buổi. Nào chẻ lạt, đánh tranh lợp nhà, nào cuốc đất trồng rau, nom như một lão nông.

Cuối năm 1948, Bộ Giáo dục điều Cha lên Lạng Sơn mở trường Trung học Việt Bắc, đào tạo lớp trí thức đầu tiên người dân tộc. Khi nhà trường đã ổn định, Cha cho người về đón gia đình lên Lạng Sơn. Trường lúc đó ở Kéo Coong, Nà Đồng, huyện Bình Gia, tỉnh Lạng Sơn. Lớp học là đình và các gian nhà tranh dựng dưới bóng cây ven tỉnh lộ Bình Gia - Lạng Sơn. Học sinh ở trọ trong các bản làng gần đấy. Học sinh đa số là người dân tộc Tày, một số người Dao. Nhiều anh em sau này trưởng thành giữ các trọng trách ở trung ương và địa phương như anh Bế Viết Đẳng Viện trưởng Viện Dân tộc học, anh Bế Kiến Quốc Hội Nhà văn Việt Nam, anh Phùng Đức đại tá quân đội (đã hy sinh), anh Hà Huy Thoại Trưởng ty Giáo dục tỉnh Lạng Sơn, v.v..

Thời gian làm hiệu trưởng, Cha rất bận công việc hành chính. Ngoài lãnh đạo công tác văn phòng hành chính, Cha còn dạy một số giờ các môn Vật lý, Hoá học. Trường mới thành lập nên cái gì cũng mới. Giáo viên phải tuyển từ các tỉnh về. Lạng Sơn lúc đó là tỉnh miền núi heo hút, vùng kháng chiến trải rộng khắp mạn rừng núi đá, đi lại khó khăn đặc biệt là lương thực không đủ ăn. Những ngày ở Kéo Coong gia đình thường ăn khoai lang độn gạo. Hàng ngày phải ra chợ vét “trứng chảy” (tiếng dân tộc Tày) tức từng bơ sữa bò gạo. Gạo nhà nước cung cấp không đủ. Cha ra sức tăng gia sản xuất. Nhà tôi ở trên một quả đồi, Cha cho vỡ đất trồng sắn, rồi trồng mướp, bí bầu, rau ngót, rau cải quanh nhà. Cha bắc nước chảy theo ống bương từ núi về vườn. Đất ở đây tốt lắm, rau lên xanh mơn mởn ăn không hết. Mẹ tôi còn ít vàng nữ trang phải đem bán dần để nuôi đàn con. Khí hậu Lạng Sơn dễ chịu, vùng Bình Gia không có sốt rét, con gái má cứ đỏ hây hây.

Ba chị em Ân, Đạm, Khoát theo học trung học. Hoành, Bằng, Bật, Đồng còn nhỏ thì ở nhà. Anh cả Hải Trừng đi bộ đội thoát ly, chị Hiến Chi công tác ở Uỷ ban Kháng chiến tỉnh Lạng Sơn. Tám người con cùng cha mẹ sống những ngày rất gian khổ nhưng vẫn vui ở Kéo Coong, cho đến tháng 7 năm 1950 Bộ Giáo dục lại điều Cha về Tuyên Quang làm Tổng Thư ký Ban Tu thư Trung ương của Bộ, chuyên việc soạn các loại sách giáo khoa.

Thời gian ở Lạng Sơn gia đình thường ăn không đủ no, mặc không đủ ấm. Những đêm mùa đông khí hậu Kéo Coong xuống tới 2 độ, bọn trẻ phải nằm quanh đống lửa mà ngủ, chăn đắp không đủ, chiếu cũng không có. Chính củi của núi rừng Lạng Sơn đã sưởi ấm gia đình suốt mùa đông. Chúng tôi lúc đó đang tuổi lớn thấy các bạn đi học quần áo đầy đủ mà thèm, nhưng không hề ganh tị so đọ mà càng quyết chí học giỏi, học một năm hai lớp để mau ra công tác đỡ gánh nặng cho cha mẹ.

Tôi nhớ cuối tháng 10 năm 1949 Mẹ sinh em Chí Công, Cha đóng một cái chõng cho mẹ nằm. Bà đỡ là phụ huynh học sinh có con học trường Trung học Việt Bắc mà Cha tôi làm Hiệu trưởng, Cha biếu bà chục trứng gà.

Tôi học hai năm ở trung học Việt Bắc lên ba lớp từ đệ nhất bỏ đệ nhị lên thẳng đệ tam. Khi vào lớp đệ tam thì Cha đổi về Tuyên Quang. Mẹ và các em nhỏ vẫn ở Nà Đồng Tôi và Đạm, Khoát theo trường sơ tán sang huyện Bắc Sơn học cho đến đầu năm 1951 Cha cho người đón gia đình sang Tuyên Quang.

Chợ Ngọc - Tuyên Quang

Cả gia đình gồng gánh nhau đi qua Thái Nguyên, vượt đèo Khế, bỏ sông Lô, ngược sông Chảy qua huyện Yên Bình lên chợ Ngọc, Tuyên Quang. Cơ quan Ban Tu thư Bộ Giáo dục đóng trong rừng lim nước cực kỳ độc: tôi về đây hai tháng bị sốt rét ác tính da xanh mét, đi không vững. Ăn không đủ, thức ăn chỉ có măng và sắn, không có nước mắm, mỡ, thịt. Suối trong vắt không có cá. Trong rừng chỉ lắm ổi nhiều măng. Cả gia đình lao đao.

Đầu năm 1951 ba chị em chúng tôi xin vào học lớp ngắn hạn ở trường Sư phạm sơ cấp trung ương của Bộ mở. Cha làm việc bên Ban Tu thư. Cơm phần lớn là gạo nếp con, ăn với bí đỏ, học sinh gọi là “bí ử”. Bây giờ nghĩ lại vẫn thấy sợ món cơm gạo nếp con ăn với bí đỏ xào chay và rau tàu bay. Rừng chợ Ngọc sẵn cọp, nhiều sốt rét. Có hôm vừa chạng vạng tối tôi đã nhìn thấy cọp vào cõng lợn của dân chạy ra rừng, thật hú vía.

Tháng 7 năm 1951, tôi tốt nghiệp Sư phạm, ra dạy học cấp 1 ở trường phổ thông Tân Trào, xã Châu Sơn, huyện Yên Sơn. Còn nhớ ngày ra nhận công tác, tôi có ghé qua chỗ Cha công tác (hình như ở Chiêm Hoá). Cha làm cho một ống nứa thịt lợn rang muối theo tỉ lệ 1/1, một gói cơm nếp nắm và tiễn đưa con gái một đoạn đường. Lúc này mẹ và các em đã được Bộ Giáo dục đưa sang Khu Học xá Nam Ninh, Quảng Tây, Trung Quốc. Ở trong nước chỉ còn anh cả đang ở trong quân đội, chị Hiến Chi, Hải Đạm và tôi.

Cho tới năm 1952 chị Hiến Chi và Hải Đạm cũng được sang Khu học xá học Sư phạm trung cấp. Trước đó ít lâu Cha cũng sang Trung Quốc. Trước khi đi Cha không gặp được tôi, nhưng trong túi còn bao nhiêu tiền Cha gửi cho con gái thông qua thầy Hà Thế Ngữ là giáo viên trường Tân Trào và là học trò của Cha.

Khu Học xá Trung ương

Cuối năm 1951, Cha được Bộ Giáo dục bố trí làm giáo viên trường Sư phạm trung cấp ở Khu Học xá trung ương đặt tại Nam Ninh, Quảng Tây, Trung Quốc. Vì Cha giỏi chữ Hán nên đây là đất dụng võ của Người. Cha mải mê dịch các tác phẩm giáo dục học của Liên Xô (qua sách báo Trung Quốc) và là người đầu tiên dịch các tác phẩm Giáo dục học của Cai Rốp, Makarenko để truyền bá khoa học giáo dục-tâm lý xã hội chủ nghĩa vào trường Sư phạm Việt Nam. Người giảng môn Giáo dục học ở trường Sư phạm cao cấp, Trung cấp. Người đào tạo giáo viên Giáo dục học cho trường Sư phạm sơ cấp, rồi cùng với các giáo viên khác lập bộ môn Tâm lý giáo dục học, đưa lý luận Giáo dục học tiên tiến vào ngành giáo dục Việt Nam.

Học sinh trường Trung cấp Sư phạm Khoa học xã hội yêu mến Cha thường thân mật gọi Cha là “Ba Tảo” cùng với hai thầy dạy Lịch sử là “Ba Khang” (thầy Trần Văn Khang), “Ba Giáp” (thầy Trần Văn Giáp) là ba thầy giáo già đức độ rất có uy tín.

Cha mẹ và em Chí Công ở một gian nhà tập thể khu gia đình do Khu Học xá phân phối. Tôi ở theo lớp khu nữ sinh, chủ nhật mới về thăm cha mẹ. Hàng ngày Cha mang phích nước đến bếp tập thể lấy nước sôi, xếp hàng lấy cơm tập thể. Sáng sáng vẫn đều đặn tập thể dục, tắm nước lã, sinh hoạt tập thể với hội đồng giáo viên. Cha được các thầy thế hệ sau như thầy Hoàng Như Mai, Dương Xuân Nghiên, Đinh Gia Khánh ... rất kính trọng.

Tham gia Cải cách ruộng đất

Năm 1954, hoà bình lập lại ở Đông Dương, kháng chiến chống Pháp thắng lợi. Cha cùng một một số thầy về nước tham gia cải cách ruộng đất (CCRĐ) ở vùng chiến khu Việt Bắc, lúc này đã cơ bản xong, bộc lộ một số khuyết điểm rất lớn. Cha đã viết thư cho Tổng Bí thư Trường Chinh (học trò của Cha ở trường Thành chung Nam Định 1924-1925) trình bày một số sai lầm của CCRĐ. Người trở lại Khu học xá với nét mặt buồn rầu. Tôi tìm hiểu và được biết chú Hai Kha (tức cư sĩ Thiều Chửu, em ruột cha) đã mất do sai lầm của CCRĐ. Chú bị đội CCRĐ vu cáo là địa chủ bóc lột trẻ em tế bần. Chịu không nổi sự phỉ báng, xuyên tạc thô bạo về tinh thần, ý nghĩa “cứu nhân độ thế” của việc mình làm trong mấy chục năm nay, ngày 16 tháng 6 năm Giáp Ngọ (1954) chú đã trẫm mình ở đập Thác Huống trên sông Cầu, tỉnh Thái Nguyên, đúng một ngày sau khi làm giỗ cha mình (cụ Cử Cầu, tức ông nội tôi).

Mãi tới năm 1999 các cháu của chú mới tổ chức được lễ cầu siêu cho chú ở chùa Quán Sứ nhân kỷ niệm 45 năm ngày chú qua đời.

Ngày 21 tháng 6 năm 2002 các cháu lại cùng tạp chí Xưa & Nay (Hội Khoa học Lịch sử) và tạp chí Tia Sáng (Bộ Khoa học Công nghệ Môi trường) tổ chức hội thảo 100 năm ngày sinh Nhà Văn hoá Thiều Chửu Nguyễn Hữu Kha tại nhà Thái Học Văn Miếu - Quốc Tử Giám. Chú là một học giả uyên thâm về Hán học và Phật học, một cư sĩ Phật giáo giàu lòng nhân ái cứu nhân độ thế. Tôi hết sức kính trọng và khâm phục chú.

Về trường Đại học Sư phạm

Cuối năm 1955, Cha được điều về làm Hiệu trưởng trường Sư phạm trung cấp trung ương Hà Nội. Tôi và các em Hải Bằng, Hải Bật, Đại Đồng lưu luyến tiễn đưa cha mẹ và em Chí Công rời Khu học xá về Việt Nam.

Công việc quản lý của Cha ở trường mới hết sức phức tạp, bởi giáo sinh từ nhiều nguồn khác nhau tập trung về trường. Trong trường có các sinh viên trường Đại học nhân dân, sinh viên các trường sư phạm ở Khu Học xá chuyển về, chẳng bên nào phục bên nào, nên gây nhiều chuyện, không được thuần như hồi ở Khu Học xá. Cha cố gắng làm hết sức mình, nhưng Người không quen công tác quản lý một trường lớn và phức tạp như vậy nên một năm sau khi đã ổn định, Cha về làm Chủ nhiệm bộ môn Tâm lý giáo dục học trường Đại học Sư phạm cho tới cuối năm 1964 thì nghỉ hưu.

Năm 1966, Mỹ gây chiến tranh phá hoại leo thang miền Bắc. Cha theo gia đình riêng của tôi sơ tán lên Canh Nậu, huyện Quốc Oai, tỉnh Hà Tây. Cha nói với Mẹ tôi: “Chồng nó đi chiến đấu xa, tôi phải lên chăm nom mẹ con nó”. Tôi xin ghi nhớ suốt đời tấm lòng thương yêu con gái này của Cha. Khi Bộ Giáo dục lên sơ tán mạn gần đó, các cán bộ giáo dục lão thành thường đến thăm Cha.

Cha con, ông cháu ở với nhau rất đầm ấm. Có miếng gì ngon tôi đều mời Cha dùng để Người vui vẻ lúc tuổi già. Nào ngờ chỉ được mấy tháng, tháng 9 năm 1966, Cha bị xuất huyết não. Tôi nhờ được một số người võng đưa Cha lên bệnh viện Thạch Thất, rồi gọi điện về Hà Nội đưa ô tô lên đón cha về bệnh viện Hữu Nghị Việt Xô. Do tuổi già, đường xa lại xóc, thuốc men chữa bệnh não lúc đó chưa có gì nên được một tuần thì cha qua đời (ngày 26 tháng 9 năm 1966 tức ngày 12 tháng 8 Bính Ngọ).

Cha mất đi khi gia đình còn ba em chưa trưởng thành: Hải Bằng đang học tại Học viện Thủy lợi, Đại Đồng đang trong quân ngũ, Chí Công đang du học bên Tiệp Khắc. Hải Bật thì đang chiến đấu ở miền Đông Nam bộ. Sau này các em đều phấn đấu trưởng thành cả.

Thế là từ nay Cha vĩnh viễn ra đi, để lại nỗi đau thương nhớ tiếc cho mẹ và các con cùng anh em họ hàng, bà con và học trò trên khắp cả nước.

Cha tôi thực sự là một người cha nhân từ, người thầy nghiêm khắc mẫu mực hết lòng thương yêu chăm lo dạy dỗ con cái nên người. Hình ảnh của Cha mãi khắc sâu trong trái tim con.

Hà Nội, 1996

Nhà giáo Nguyễn Thị Quốc Ân

(Trích từ tập hồi ức "Trong sáng những tấm gương")

Chủ Nhật, 3 tháng 1, 2021

Tỉnh Đắk Nông đã có tên đường Hoàng Thế Thiện

Ngày 11-12-2020, Hội đồng nhân dân tỉnh Đắk Nông đã ban hành Nghị quyết số 18/2020/NQ-HĐND về việc đặt tên đường trên địa bàn thành phố Gia Nghĩa, tỉnh Đắk Nông năm 2020. Nghị quyết này đã được Hội đồng nhân dân tỉnh Đắk Nông khóa III, Kỳ họp thứ 11 thông qua ngày 11-12-2020. 

Theo Nghị quyết số 18/2020/NQ-HĐND của Hội đồng nhân dân tỉnh Đắk Nông, thành phố Gia Nghĩa (tỉnh lỵ của tỉnh Đắk Nông) có 119 tuyến đường được đặt tên mới trong năm 2020, trong đó có tuyến đường mang tên Thiếu tướng Hoàng Thế Thiện. 

Tuyến đường Hoàng Thế Thiện có chiều dài 1.340m, chiều rộng 16m, là tuyến đường nhựa dẫn vào Nghĩa trang thành phố nằm trên địa bàn xã Đắk Nia, có điểm đầu giao với Quốc lộ 28, điểm cuối giao với cổng Nghĩa trang thành phố. 

Việc đặt tên đường mang tên Thiếu tướng Hoàng Thế Thiện tại thành phố Gia Nghĩa (tỉnh lỵ của tỉnh Đắk Nông) thể hiện sự trân trọng của chính quyền và nhân dân tỉnh Đắk Nông đối với những cống hiến của ông đối với Tây Nguyên nói riêng và với Tổ quốc Việt Nam nói chung. 

Gia đình - Nhà lưu niệm Thiếu tướng Hoàng Thế Thiện xin trân trọng cảm ơn chính quyền và nhân dân tỉnh Đắk Nông.






 

Thứ Ba, 22 tháng 12, 2020

Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy và Hội đồng thẩm định nhân vật lịch sử tỉnh Thái Nguyên đã chính thức kết luận đồng chí Hoàng Thế Thiện tham gia Ban Thường vụ Tỉnh ủy lâm thời, Chủ nhiệm Tỉnh bộ Việt Minh tỉnh Thái Nguyên từ tháng 9-1945 đến tháng 10-1946

Vậy là sau 3 năm vất vả với nhiều đơn thư kiến nghị kèm theo nhiều tư liệu chứng minh từ phía Gia đình - Nhà lưu niệm Thiếu tướng Hoàng Thế Thiện, cộng thêm sự vào cuộc giúp đỡ của các chuyên gia, nhà nghiên cứu và nhà báo, cuối cùng, những cống hiến của đồng chí Hoàng Thế Thiện với tỉnh Thái Nguyên trong thời kỳ trước và sau Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 đã được Hội đồng thẩm định nhân vật lịch sử và cơ quan nghiên cứu Lịch sử Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên ghi nhận đúng qua nội dung Công văn số 90-CV/BTGTU ngày 20-11-2020 của Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Thái Nguyên là: 

Chủ tịch Hội đồng thẩm định nhân vật lịch sử đã kết luận đồng chí Hoàng Thế Thiện tham gia Ban Thường vụ Tỉnh ủy lâm thời, Chủ nhiệm Tỉnh bộ Việt Minh tỉnh Thái Nguyên từ tháng 9 năm 1945 đến tháng 10 năm 1946. Kết luận nêu trên là căn cứ để chỉnh lý nội dung cuốn sách “Lịch sử Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên (1936-2016)” và cuốn “Kỷ yếu Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên, giai đoạn 1945-2020”. 

(Trong Lịch sử Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên hiện nay và nhiều tài liệu có liên quan, kể cả "Từ điển Thái Nguyên", đồng chí Hoàng Thế Thiện chỉ được ghi nhận chưa đúng là: Tỉnh ủy viên Tỉnh ủy lâm thời tỉnh Thái Nguyên phụ trách công tác tuyên truyền và thanh niên).

Gia đình - Nhà lưu niệm Thiếu tướng Hoàng Thế Thiện xin trân trọng cảm ơn đồng chí Bí thư Tỉnh ủy Thái Nguyên, Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Thái Nguyên và sự vào cuộc giúp đỡ đầy nhiệt tình của các chuyên gia, nhà nghiên cứu và nhà báo để lịch sử được ghi nhận đúng như những gì đã diễn ra.

 


Thứ Ba, 21 tháng 4, 2020

Kỷ niệm 45 năm chiến thắng Xuân Lộc (21-4-1975 - 21-4-2020): Chiến dịch Xuân Lộc - điển hình về nghệ thuật dùng mưu kế đánh địch

Từ ngày 9 đến 21-4-1975, ta mở chiến dịch Xuân Lộc. Đây là chiến dịch đặc biệt quan trọng, diễn ra rất ác liệt vì địch tăng cường phòng thủ và kêu gọi binh sĩ tử thủ. Tuy nhiên, sau khi tấn công không hiệu quả, ta đã dùng mưu kế đập tan “cánh cửa thép” Xuân Lộc, mở rộng đường tiến thực hiện Chiến dịch Hồ Chí Minh. Chiến dịch Xuân Lộc được coi là một điển hình về nghệ thuật dùng mưu kế đánh địch trong kho tàng lịch sử quân sự Việt Nam hiện đại. 

Mưu kế được thể hiện cụ thể trong ý định, chủ trương, kế hoạch tác chiến và trong toàn bộ quá trình lập thế trận, điều khiển thế trận. Thế trận sâu hiểm phản ánh mưu cao, kế giỏi. Muốn đạt tới mưu cao, kế giỏi trong chiến lược, chiến dịch và chiến đấu, phải trải qua sự nghiên cứu tổng hợp về địch, ta, địa hình và hình thái bố trí của hai bên trên chiến trường; có kết luận đúng về chỗ mạnh, chỗ yếu, về âm mưu, thủ đoạn, quy luật hoạt động và phương thức tác chiến của địch. Trên cơ sở đó mà lập mưu kế tiêu diệt, đánh bại địch. Ở Chiến dịch Xuân Lộc, tại thời điểm đầu ta chưa xác định đúng thực lực của địch cả về lực lượng, tinh thần chiến đấu nên không thực hiện ý định. Nhưng sau đó, do kịp thời nhận định tình hình nên ta đã chuyển hướng, khiến địch bị bất ngờ và phải tự rút bỏ Xuân Lộc. 

Xuân Lộc là một thị xã thuộc tỉnh Long Khánh, cách Sài Gòn 60km về phía đông bắc là phòng tuyến trọng tâm để địch ngăn ta cơ động theo Đường 1 và Đường 20 đánh vào Biên Hòa và Sài Gòn. Tại đây, địch đã tập trung một lực lượng lớn phòng thủ Xuân Lộc, nòng cốt là Sư đoàn 18 bộ binh, một đơn vị thiện chiến của Quân đoàn 3 ngụy. Tuyến phòng ngự của Sư đoàn này được xác định trên một chính diện từ 30 đến 40km, từ Túc Trưng qua Dầu Giây, thị xã Xuân Lộc đến ngã ba Tân Phong. Các vị trí phòng thủ được tăng cường thêm mìn, hàng rào dây thép gai, vật chướng ngại chống tăng, kết hợp với hệ thống đồn bốt bảo an, dân vệ chăng ra thành một mạng lưới dày đặc, hòng buộc quân ta phải lùi dần từng bước, khi tới ven đô thì kiệt sức.

Để đập tan “cánh cửa thép” Xuân Lộc, ta tập trung hai sư đoàn tiêu diệt sư đoàn 18 ngụy, giải phóng chi khu Xuân Lộc và từ ngã ba Dầu Giây đến núi Chứa Chan. Một sư đoàn khác bao vây chia cắt địch ở Gia Kiệm, Túc Trưng, tạo điều kiện diệt quân ứng cứu của địch, nắm thời cơ tiến công giải phóng chi khu Gia Kiệm - Dầu Giây, đường 20. Để thực hiện mục tiêu này, ta sử dụng lực lượng Quân đoàn 4 (Sư đoàn 7, Sư đoàn 341, Sư đoàn 6) tăng cường Sư đoàn bộ binh 6, hai tiểu đoàn xe tăng và hai tiểu đoàn bộ đội địa phương Khu 7 do đồng chí Thiếu tướng Hoàng Cầm làm Tư lệnh cùng Thiếu tướng Hoàng Thế Thiện làm Chính ủy tiến công Xuân Lộc. 

Sáng 9-4, từ các hướng đã xác định, ta đồng loạt nổ súng tiến công địch nhưng bị địch phản kích mãnh liệt, khiến cuộc chiến trở nên hết sức quyết liệt. Các Sư đoàn 7, Sư đoàn 6 và Sư đoàn 341 của ta đã phải tổ chức tiến công nhiều lần vào thị xã, đánh đi đánh lại diệt từng mục tiêu và phải nhiều lần đẩy lùi các cuộc phản kích của địch. Địch tăng cường lực lượng cho Xuân Lộc. Ngày 12-4, địch đổ lữ đoàn 1 dù xuống ngã ba Tân Phong. Tiếp đó, địch điều lữ đoàn 3 thủy quân lục chiến, chiến đoàn 318 biệt động đến Trảng Bom, chiến đoàn 322 biệt động ở Bàu Cá, chiến đoàn 315 ở Bàu Hàn, điểm cao 122, trung đoàn 8 thuộc sư đoàn 5 từ Lai Khê sang Bàu Cá. Tính ra, địch đã tập trung ở khu vực này 50% lực lựợng bộ binh, 60% pháo binh và hầu hết xe tăng, xe thiết giáp của Quân đoàn 3 cùng lực lượng tổng dự bị tương đương một sư đoàn. Không quân địch ở các sân bay Biên Hòa, Tân Sơn Nhất được huy động trung bình 80 lần chiếc/ngày để chi viện trực tiếp cho các mũi phản kích. Địch sử dụng cả bom CBU55 mà Mỹ vừa cung cấp trong thời gian tướng Wayend sang Sài Gòn để ngăn chặn ta.

Qua năm ngày chiến đấu, tuy ta đã chiếm được một số mục tiêu, diệt một bộ phận sinh lực địch và giữ được một số bàn đạp quan trọng, nhưng ta chưa diệt gọn được một tiểu đoàn nào của chúng, bộ đội bị thương vong nhiều. 

Từ nhận định Xuân Lộc chỉ có giá trị khi được nối với Biên Hòa, Bộ Tư lệnh chiến dịch đã chủ trương lập thế trận mới, cô lập và cắt rời Xuân Lộc ra khỏi Biên Hòa bằng cách đánh chiếm ngã ba Dầu Giây, cắt đường 1, chặn đánh địch từ Trảng Bom lên; đánh chiếm Tân Phong, cắt đường 2 đi Bà Rịa. Ngay lập tức, Bộ Tư lệnh Quân đoàn 4 đã ra lệnh ngừng tiến công thị xã, mỗi sư đoàn chỉ để lại một tiểu đoàn kiềm chế nghi binh địch còn lại lui ra phía sau củng cố làm lực lượng cơ động. Sư đoàn 6 và Trung đoàn 95B (vừa được trên tăng cường) tổ chức bao vây tiêu diệt Chiến đoàn 52 địch, thực hiện chốt chặn chiến dịch, diệt quân địch từ Biên Hòa, Trảng Bom lên phản kích. Trung đoàn 209 triển khai trên dải ở phía bắc chi khu Tân Phong chặn đánh Lữ đoàn 1 dù không cho chúng vượt qua cầu Gia Liên để phối hợp với Chiến đoàn 43 trong thị xã. 

Trong khi ta chuyển thế trận, địch tưởng rằng chúng đã đẩy lùi được cuộc tiến công của ta. Rạng sáng ngày 15-4, pháo chiến dịch bắn dồn dập vào sân bay Biên Hòa, cùng lúc Sư đoàn 6 và Trung đoàn 95B đã tiêu diệt chiến đoàn 52, diệt gọn một tiểu đoàn pháo, một chi đoàn thiết giáp, giải phóng hoàn toàn chi khu Gia Kiệm, ngã ba Dầu Giây, cắt đứt đường 1 đoạn Xuân Lộc - Bàu Cá, đường 20 đoạn Túc Trưng - ngã ba Dầu Giây.

Trong hai ngày 16 và 17-4, Quân đoàn 3 ngụy ở Trảng Bom đốc thúc lữ đoàn 3 thiết giáp cùng chiến đoàn 8 sư đoàn 5 với hơn 100 khẩu pháo ở các căn cứ Nước Trong, Hốc Bà Thức, Long Bình, Đại An và 125 lần chiếc máy bay mỗi ngày chi viện, phản kích hòng chiếm lại khu vực Dầu Giây. Sư đoàn 6 và Trung đoàn 95B chặn đánh địch quyết liệt ở Hưng Nghĩa và điểm cao 122, diệt gọn một tiểu đoàn, bắt hơn 100 tên, đẩy lùi quân địch xuống Bàu Cá. 

Trước nguy cơ Xuân Lộc mất giá trị phòng thủ vì mất Dầu Giây và do bị bất ngờ về mưu kế chuyển đổi thế trận của ta, địch đã tổ chức rút lui. Đề nghi binh cho hành động này, địch bắn pháo vào trận địa của ta. Lúc 17 giờ, phát hiện thấy quân địch đi lại nhiều, phán đoán chúng có thể rút khỏi thị xã theo hướng đường 2 về Vạn Kiếp, Bà Rịa và Sở cao su Ông Quế về Nước Trong hoặc Trảng Bom; Bộ Tư lệnh chiến dịch lệnh cho các đơn vị tiến công và truy kích địch. Sư đoàn 341 tiến đánh vào thị xã rồi phát triển theo đường Sở cao su Ông Quế, Sư đoàn 7 đánh chiếm nam Tân Phong, chặn đường số 2, Sư đoàn 6 tổ chức chặn địch ở Sở cao su Ông Quế, các tiểu đoàn địa phương chốt chặn và truy kích địch trên đường 2. Ngày 21-4, thị xã Xuân Lộc và toàn tỉnh Long Khánh được giải phóng, chiến dịch tiến công Xuân Lộc kết thúc.

Kết quả, ta đã đánh thiệt hại nặng sư đoàn 18, lữ đoàn dù 1, tiêu diệt chiến đoàn 52, đánh thiệt hại trung đoàn 5 và lữ đoàn 3 thiết giáp, loại khỏi vòng chiến đấu 2.056 tên, bắt 2.785 tên địch, thu 48 ô tô, 1.499 súng các loại, phá hủy 42 xe tăng, xe thiết giáp, 16 ô tô, giải phóng Xuân Lộc và toàn bộ tỉnh Long Khánh.

Chiến dịch tiến công Xuân Lộc thắng lợi đã đập tan “cánh cửa thép” phía đông, làm rung chuyển cả hệ thống phòng thủ còn lại của địch ở quanh Sài Gòn, làm suy sụp nhanh thêm tinh thần chiến đấu của quân ngụy. Thắng lợi của chiến dịch đã tạo ra một địa bàn tập kết thuận lợi cho các binh đoàn chủ lực tiến công vào Sài Gòn từ hướng đông, một thế trận mới rất có lợi cho Chiến dịch Hồ Chí Minh đã mở ra.


Trung tá Ths VŨ BÌNH TUYỂN (Viện Lịch sử quân sự Việt Nam)



Tài liệu tham khảo:


1. Sự kiện và những con số lịch sử

2. Nghệ thuật quân sự Việt Nam trong chiến tranh giải phóng và bảo vệ Tổ quốc


Chủ Nhật, 19 tháng 4, 2020

Chiến dịch Xuân Lộc trong Đại thắng mùa Xuân 1975

Đầu tháng 4/1975, quân ta mở cuộc tiến công giải phóng Xuân Lộc nhằm đập tan “cánh cửa thép” cửa ngõ phía Đông Sài Gòn, mở đường cho quân và dân ta nhanh chóng tiến công giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước trong mùa Xuân 1975.

Sau khi chiến dịch giải phóng Trị Thiên – Huế và Đà Nẵng (tháng 3/1975) của đại quân ta liên tiếp giành thắng lợi giòn giã, Mỹ - ngụy vội vã tổ chức tuyến phòng thủ mới, kéo dài từ Phan Rang qua Xuân Lộc đến Tây Ninh, trong đó Xuân Lộc, một thị xã thuộc tỉnh Long Khánh (nay là tỉnh Đồng Nai), cách Sài Gòn 60km về phía Đông Bắc, phòng tuyến trọng tâm để địch ngăn ta cơ động theo Đường 1 và Đường 20 đánh vào Biên Hòa và Sài Gòn. Tướng Mỹ Uây-len (Weyand), Tham Mưu trưởng Lục quân Mỹ, nói với Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu và các tướng ngụy rằng: “Phải giữ cho được Xuân Lộc, mất Xuân Lộc là mất Sài Gòn”.

Từ nhận định trên, địch tập trung một lực lượng lớn phòng thủ Xuân Lộc, nòng cốt là Sư đoàn 18, một đơn vị thiện chiến của Quân đoàn 3 ngụy. Tuyến phòng ngự của Sư đoàn này được xác định trên một chính diện từ 30 đến 40km, từ Túc Trưng qua Dầu Giây, thị xã Xuân Lộc đến ngã ba Tân Phong. Ngoài ra, địch bố trí thêm 1 liên đoàn biệt động quân, 1 trung đoàn thiết giáp và 9 tiểu đoàn bảo an. Trong quá trình cố thủ bảo vệ Xuân Lộc, địch chi viện thêm Lữ đoàn dù 1, Trung đoàn Bộ binh 8 thuộc Sư đoàn 5 ngụy, 01 liên đoàn biệt động quân và 1 trung đoàn thiết giáp.

Quán triệt tư tưởng chỉ đạo của Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương “thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng..., một mặt cần cơ động nhanh chóng, thần tốc, mặt khác sử dụng ngay lực lượng hiện có để kịp thời hành động”. Ngày 02/4/1975, Bộ Tư lệnh Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam đã quyết định mở cuộc tiến công giải phóng Xuân Lộc nhằm tiêu diệt Sư đoàn 18 ngụy ở vòng ngoài, cắt giao thông, cô lập và phá âm mưu phòng ngự Sài Gòn từ xa, đồng thời mở đường cho quân ta tiến công giải phóng hoàn toàn miền Nam. Nhiệm vụ tiến công Xuân Lộc được giao cho Quân đoàn 4, được phối thuộc Sư đoàn Bộ binh 6, 02 tiểu đoàn xe tăng và 02 tiểu đoàn bộ đội địa phương; đồng chí Hoàng Cầm là Tư lệnh Chiến dịch, đồng chí Hoàng Thế Thiện là Chính ủy Chiến dịch.

Ngày 03/4, tại Sở Chỉ huy ở phía Đông cầu La Ngà, Bộ Tư lệnh Chiến dịch đã họp và đề ra hai phương án tiến công Xuân Lộc:

Phương án 1: Tập trung 02 sư đoàn tiêu diệt Sư đoàn 18 ngụy, giải phóng chi khu Xuân Lộc và từ ngã ba Dầu Giây đến núi Chứa Chan; 01 sư đoàn bao vây chia cắt địch ở Gia Kiệm, Túc Trưng tạo điều kiện diệt quân ứng cứu của địch, nắm thời cơ tiến công giải phóng chi khu Gia Kiệm – Dầu Giây, Quốc lộ 20;

Phương án 2: Nếu tình huống không có lợi thì tập trung lực lượng tiêu diệt địch ở bên ngoài, giải phóng hai chi khu Tân Phong và Gia Kiệm, tiêu diệt quân viện trợ của địch tiến tới tiến công dứt điểm Long Khánh và tổ chức đánh địch rút lui.

Trước tình hình chiến sự, Bộ Tư lệnh Chiến dịch quyết định tiến công thị xã Xuân Lộc theo Phương án 1, cụ thể: Sư đoàn 7 tiến công trên hướng chủ yếu từ phía Đông Thị xã, có nhiệm vụ đánh chiếm hậu cứ Trung đoàn 5, Chiến đoàn 43, Sở Chỉ huy Sư đoàn 18 ngụy, diệt toàn bộ quân địch ở phía Đông Thị xã; Sư đoàn 341 tiến công trên hướng thứ yếu từ phía Bắc Thị xã, có nhiệm vụ đánh chiếm Ty cảnh sát, Khu cố vấn Mỹ, Dinh Tỉnh trưởng và cùng Sư đoàn 7 phát triển xuống phía Nam; Sư đoàn 6 chia cắt ở Đường 1, đoạn ngã ba Dầu Giây, có nhiệm vụ tiêu diệt các chốt địch từ ấp Hưng Lộc đến đèo Mẹ Bồng Con, đánh viện binh và đánh địch rút chạy. Quân đoàn tổ chức bốn cụm pháo, hai cụm cao xạ chi viện và bảo vệ cho các hướng chiến đấu.

Sáng 09/4/1975, theo kế hoạch, các cánh quân của ta đồng loạt nổ súng đột phá Xuân Lộc và tiểu khu Long Khánh. Trong ngày đầu, ta đã chiếm được một phần hai Thị xã, toàn bộ Khu hành chính Tiểu khu, đã đưa được ba tiểu đoàn vào bên trong và thực hiện cắt Đường 1 ở đoạn ngã ba Dầu Giây – đèo Mẹ Bồng Con. Sáng 10/4, ta tiếp tục đột phá Xuân Lộc, chiếm sân bay, đánh thiệt hại nặng Trung đoàn 43 thuộc Sư đoàn 18 ngụy, đánh Lữ đoàn dù 1 đổ xuống Tân Phong vừa được chi viện. Địch phải điều thêm 1 liên đoàn biệt động quân và Trung đoàn 8 thuộc Sư đoàn Bộ binh 5...

Qua 05 ngày chiến đấu, tuy ta đã chiếm được một số mục tiêu, diệt một bộ phận sinh lực địch và giữ được một số bàn đạp quan trọng nhưng ta chưa diệt gọn được một tiểu đoàn nào của chúng, bộ đội bị thương vong nhiều. Bên cạnh đó, từ nhận định Xuân Lộc chỉ có giá trị khi được nối với Biên Hòa, Bộ Tư lệnh Chiến dịch đã chủ trương lập thế trận mới, cô lập và cắt rời Xuân Lộc ra khỏi Biên Hòa bằng cách đánh chiếm ngã ba Dầu Giây, cắt Đường 1, chặn đánh địch từ Trảng Bom lên, đánh chiếm Tân Phong, cắt Đường 2 đi Bà Rịa. Ngay lập tức, Bộ Tư lệnh ra lệnh ngừng tiến công thị xã, mỗi sư đoàn chỉ để lại một tiểu đoàn kiềm chế nghi binh địch, còn lại lui ra phía sau củng cố làm lực lượng cơ động.

Trong khi ta chuyển thế trận, địch tưởng rằng chúng đã đẩy lùi được cuộc tiến công của ta, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu tuyên truyền về “chiến thắng Xuân Lộc” và “khả năng chiến đấu của quân lực Việt Nam Cộng hòa đã phục hồi”.

Rạng sáng 15/4, pháo của ta bắn dồn dập vào sân bay Biên Hòa, Sư đoàn 6 và Trung đoàn 95B tập kích diệt gọn Trung đoàn 52 ngụy, giải phóng hoàn toàn chi khu Gia Kiệm, ngã ba Dầu Giây, cắt đứt Đường 1 đoạn Xuân Lộc – Bầu Cá, Đường 20 đoạn Túc Trưng – ngã ba Dầu Giây. Trong hai ngày 16, 17, ta chặn đánh, đẩy lùi Trung đoàn Thiết giáp 3 và Trung đoàn 8 địch chi viện từ phía Biên Hòa đến. Trước nguy cơ bị tiêu diệt, ngày 18/4, Sư đoàn 18 ngụy rút chạy, chiều tối ngày 20/4, địch ở Xuân Lộc rút chạy. Do phát hiện và tổ chức tiến công, truy kích địch chậm, mặt khác do trời tối, mưa to nên ta chỉ diệt được một bộ phận đi sau của địch, bắt sống tên Đại tá, Tỉnh trưởng tỉnh Long Khánh. Ngày 21/4, thị xã Xuân Lộc và toàn tỉnh Long Khánh được giải phóng, chiến dịch tiến công Xuân Lộc kết thúc thắng lợi.

Kết quả, sau 11 ngày chiến đấu kiên cường, dưới sự chỉ đạo sáng suốt của Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương, trực tiếp là Bộ Tư lệnh Chiến dịch, ta đã làm chủ hoàn toàn thị xã Xuân Lộc và toàn bộ tỉnh Long Khánh; đánh thiệt hại nặng Sư đoàn 18, Lữ đoàn dù 1, tiêu diệt Trung đoàn 5 và Lữ đoàn Thiết giáp 3; diệt hàng nghìn tên, bắt 2.785 tên địch; thu 48 ô tô, 1.499 súng các loại, phá hủy 42 xe tăng, xe thiết giáp và 16 ô tô của địch.

Chiến thắng Xuân Lộc là một trong những điểm nhấn của Đại thắng mùa Xuân 1975 lịch sử. Đó là trận đánh cam go, ác liệt, thể hiện sự mưu trí và sáng tạo của quân ta, đã đập tan “cánh cửa thép” cửa ngõ phía Đông Sài Gòn, làm rung chuyển cả hệ thống phòng thủ còn lại của địch và khiến tinh thần chiến đấu của quân ngụy suy sụp nhanh chóng. Thắng lợi này đã tạo ra một địa bàn tập kết thuận lợi cho các binh đoàn chủ lực của ta tiến công vào Sài Gòn từ hướng Đông, mở ra thế trận mới có lợi cho Chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng./.

Tài liệu tham khảo:

1. Đặng Việt Thủy, Đặng Thành Trung, Tổng tiến công và nỏi dậy mùa xuân năm 1975, NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2015.

2. TS. Phạm Bá Toàn, Quyết định lịch sử, NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2015.

Nguồn: Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam